Bạn có nhớ ngày xưa mình đã học tiếng mẹ đẻ thế nào không? Trước khi đến tuổi vào Cấp một và được học về bảng chữ cái hay ngữ pháp, mỗi đứa trẻ đều đã hình thành cho mình khả năng nghe và nói nói tiếng mẹ đẻ với một vốn từ nhất định. Đó là do từ khi sinh ra, những người lớn trong gia đình thường xuyên giao tiếp với đứa trẻ bằng một số từ và câu đơn giản. Từ những thông tin được lặp lại đều đặn đó, bộ não đứa trẻ nhận ra những quy tắc được sử dụng với tần suất cao nhất và ghi nhớ chúng trong vô thức.

Một ví dụ là khi giao tiếp với trẻ con, người lớn thường bắt đầu với những từ đơn giản như từ “bà” trong các câu: “bà ơi”, “bà đang làm gì đấy”, “bà ăn gì” kèm với hình ảnh người bà trước mặt. Từ thông tin được lặp lại đó, não bộ đứa trẻ nhận biết sự kết nối giữa hình ảnh “người bà” và từ “bà”, từ đó bắt đầu bập bẹ “bà” khi thấy những hình ảnh tương tự với bà mình. Dựa trên quy tắc đơn giản ấy, não đứa trẻ tổng hợp tất cả các thông tin được tiếp xúc hàng ngày, bao gồm vô số sự kết hợp giữa âm thanh, hình ảnh, cảm xúc và ghi nhớ những sự kết hợp có tần suất xuất hiện nhiều nhất.
Vẫn với ví dụ trên, đứa trẻ không chỉ nhớ từ “bà” khi đi kèm với hình ảnh người bà mà còn ghi nhớ những từ có thế kết hợp với nhau như “bà nội” hay “bà ngoại”, và sau đó là những cấu trúc ghép thành câu, từ đơn giản tới phức tạp.
Nói cách khác, bộ não con người nói chung hoạt động như một bộ máy trí tuệ nhân tạo điển hình và khi cung cấp cho nó một số lượng lớn thông tin cùng với các khả năng kết hợp của những thông tin ấy một cách đều đặn, nó sẽ ghi nhớ những “quy tắc” được xuất hiện với tần suất cao nhất.
So với việc học tiếng mẹ đẻ từ lúc mới sinh ra, việc học một ngoại ngữ mới khi đã trưởng thành không được hiệu quả và nhanh bằng. Lý do là vì tổng số thời gian, tần suất và sự phong phú của ngoại ngữ bạn đang học khó có thể bằng được mức độ tiếp xúc của bạn với tiếng mẹ đẻ. Thêm vào đó, sự tập trung, cảm xúc và mối quan tâm bạn dành cho ngôn ngữ đó đều có thể tác động lên tiến độ học. Tất cả những yếu tố trên đều có thể gây „nhiễu“ cho bộ não của bạn, khiến nó gặp khó khăn trong việc thu thập đủ thông tin, tìm ra những quy tắc và ghi nhớ chúng.
Tuy vậy, hiểu được cách ghi nhớ của bộ não vẫn giúp bạn tìm ra được những cách học hiệu quả để ghi nhớ tiếng Đức một cách lâu dài. Bạn hãy thử tìm hiểu về cách học kết hợp giữa việc học có ý thức và học trong vô thức ở phần sau nhé.
Học “có ý thức” nghĩa là trước khi áp dụng một từ mới hay một kiến thức ngữ pháp nào đó, bạn cần được giáo viên giải thích cặn kẽ về nghĩa, cấu trúc và trường hợp sử dụng của từ vựng hay ngữ pháp đó. Khi được giải thích, bạn cố gắng hiểu những kiến thức đó thông qua tiếng mẹ đẻ, học thuộc chúng và cố gắng nhớ lại để áp dụng mỗi khi cần. Vì lượng kiến thức thu thập vào ít có sự liên kết và cũng chỉ xuất hiện một vài lần, nên nó chỉ được cất vào trí nhớ ngắn hạn thay vì trí nhớ dài hạn, và bạn chỉ có thể áp dụng chúng dưới dạng làm bài tập. Lúc đó, não của bạn nhớ ra kiến thức theo dạng “trả bài” thay vì phát ra kiến thức như một phản xạ tự nhiên.
Vậy cách học này có thể giúp ích khi nào? Nó có thể hữu dụng cho những kiến thức từ vựng và ngữ pháp đi theo một quy tắc cố định. Những quy tắc này là “bất di bất dịch” và khi học thuộc chúng, bạn có thể áp dụng được cho tất cả các trường hợp mà không cần đợi đến lúc phải từng nghe qua cách sử dụng của từng trường hợp đủ nhiều. Ví dụ những từ kết thúc đuôi -keit, -heit, -schaft thì mang giống die hay cách chia đuôi tính từ theo 4 Kasus (Nominativ, Akkusativ, Dativ, Genitiv).
Học trong vô thức nên được áp dụng nhiều nhất có thể, đặc biệt với những kiến thức rời rạc không đi theo quy tắc như khi học từ vựng, mạo từ der, die, das đi kèm với danh từ, động từ bất quy tắc, v.v. Mục đích của việc học trong vô thức là tạo nguồn dữ liệu cho não bạn nhiều nhất có thể, để nó “tự” nhận ra những sự kết hợp từ, cách dùng từ xuất hiện nhiều nhất và ghi nhớ chúng một cách tự nhiên nhất. Để làm được điều này, bạn nên đặc biệt chú ý tới hai kỹ năng nghe và nói.
Bước đầu khi luyện nghe, bạn hãy tìm những chủ đề mà bạn quan tâm để không bị nhàm chán khi nghe thường xuyên. Nội dung nghe có thể là chương trình giải trí (The Voice of Germany, Let’s dance, Kitchen Impossible), bản tin thời sự Tagesschau hay các chương trình thú vị khác như MAITHINK X. Nên nhớ, sự đều đặn là quan trọng nhất cho não của bạn trong việc ghi nhớ. Vì vậy, hãy tìm ra cho mình 1-2 chủ đề bạn quan tâm và luyện nghe nó một cách thường xuyên nhất. Hãy đặc biệt chú ý vào những thông tin lặp đi lặp lại như cách chào và giới thiệu của người dẫn chương trình, cách bắt đầu khi nói lên ý kiến (của giám khảo trong những chương trình giải trí), cách mô tả về thời tiết trong những bản tin thời tiết. Sau một thời gian, bạn sẽ thấy bộ não của mình đã „tự“ ghi nhớ những kiến thức mới mà không cần phải được học qua.
Ngoài ra, có một thứ bạn có thể nghe hàng ngày đó là nghe đài. Nội dung trên đài được thiết kế lặp lại mỗi 20-30 phút, dựa trên mức độ tập trung của một người. Trong mỗi vòng 20-30 phút ấy, đài sẽ phát những thông tin mang chủ đề về thời tiết, giao thông, một bản tin ngắn hay một chủ đề hôm đó được đưa ra để bàn luận. Ngoài nội dung xoay vòng, khi nghe đài bạn sẽ không cảm thấy nặng nề vì luôn có phần ca nhạc xen giữa các nội dung khác. Ngoài ra, các chủ đề phát trên đài thường gần gũi, gắn liền với cuộc sống hàng ngày, rất phù hợp để bạn nghe thường xuyên. Để nghe đài, bạn có thể truy cập vào trang web hoặc download app của nhà đài (tìm bằng từ khóa „Radio“ + tên bang, ví dụ „Radio Hamburg“).
Công bằng mà nói thì đây không phải là cách người lớn nên làm trong mọi trường hợp của cuộc sống và cách làm này có phần đem lại cảm giác „thiếu an toàn“ cho một người trưởng thành. Tuy nhiên, đó lại là cách học ngoại ngữ „nhẹ nhàng“ nhất, đặc biệt với một thứ ngôn ngữ có lượng dữ liệu khổng lồ và nhiều sự kết nối đan xen như tiếng Đức.
Lời khuyên cho bạn là đừng đợi đến lúc bạn hoàn toàn hiểu ngữ pháp của một câu thì mới bắt đầu sử dụng câu đó. Một khi bạn được giáo viên hướng dẫn dùng một cách nói trong một ngữ cảnh nào đó, hoặc bạn quan sát thấy giáo viên hoặc người bản xứ sử dụng lặp đi lặp lại một cấu trúc câu trong một trường hợp nhất định, bạn hãy bắt đầu biến nó thành của riêng mình bằng cách sử dụng cách nói đó.
Ví dụ, khi bạn nghe giáo viên bắt đầu buổi học mỗi sáng bằng câu chào Guten Morgen (chào buổi sáng), bạn cũng có thể bắt đầu áp dụng câu chào này mỗi khi đến lớp vào buổi sáng, trước khi giáo viên dạy tới bài „Các cách chào bằng tiếng Đức“. Hoặc khi giơ tay để đặt câu hỏi, bạn hãy bắt đầu bằng câu Ich habe eine Frage (Tôi có một câu hỏi) ngay từ những buổi học đầu tiên. Việc mạnh dạn nói ra tiếng Đức nhiều nhất có thể là cách bạn cung cấp thông tin cho não bộ của mình, giúp tăng khả năng ghi nhớ kiến thức một cách lâu dài. Bằng cách này, bạn sẽ giảm thiểu cho mình việc phải học thuộc một cách chủ động. Ví dụ, khi bạn nói quen câu Ich habe eine Frage, bạn sẽ không phải học thuộc mạo từ cho danh từ Frage, vì từ câu trên não bạn đã ghi nhớ mạo từ die cho Frage rồi. Bên cạnh đó về mặt ngữ pháp, não của bạn sẽ không „chấp nhận“ việc bạn nói Ich habe einen Frage, bởi đó là một thông tin khác với những gì nó thường xuyên được luyện tập trước đó.
Để học tốt tiếng Đức trong thời gian nhanh nhất và có thể sử dụng nó lâu dài, việc bạn cần làm là cân bằng giữa cách học có ý thức và cách học trong vô thức. Đặc biệt, việc sử dụng ngay lập tức những điều bạn học được hay quan sát được thông qua việc nói ra chúng sẽ giúp bạn xây dựng phản xạ. Để làm được điều này, bạn cũng cần chú trọng tới môi trường để giúp bạn luyện tập. Môi trường tối ưu sẽ luôn khuyến khích bạn nói tiếng Đức ngay từ những ngày học đầu tiên và không ngừng sửa cho bạn mỗi khi bạn nói chưa chuẩn xác. Hãy cân nhắc điều này khi tìm một trung tâm/lớp học giúp bạn học tiếng Đức hiệu quả.
[1] Cindy Blanco, “Vorbild für KI: Wie unser Gehirn sprachliche Muster erkennt”. Available: https://blog.duolingo.com/de/wie-unser-gehirn-muster-erkennt/. [Accessed: 30-June-2024].